|
Kỳ tích thau chua, rửa mặn, hồi sinh vùng Đồng Tháp Mười
Từ trên cao nhìn xuống, Đồng Tháp Mười hôm nay như một tấm thảm xanh mướt, xen kẽ những con kênh thẳng tắp phản chiếu ánh mặt trời. Ít ai nhớ rằng bốn, năm thập kỷ trước, nơi đây chỉ là vùng trũng hoang vu, mênh mông lau sậy, nước phèn đỏ quạch và muỗi mòng dày đặc. Vậy mà chính từ vùng “đất chết” ấy, thủy lợi Việt Nam đã tạo nên một trong những kỳ tích lớn nhất của nông nghiệp hiện đại - công cuộc thau chua, rửa mặn, biến Đồng Tháp Mười thành vựa lúa của cả nước. Từ vùng nước phèn hoang vu… Trước năm 1975, Đồng Tháp Mười là một trong những vùng đất khó khăn nhất của Nam Bộ. Mỗi mùa mưa, nước phèn dâng cao, tràn ngập ruộng đồng; mùa khô thì hạn, mặn kéo dài, cây cối không sống nổi. Người dân ít ai dám định cư lâu dài, bởi chỉ cần đào một lớp đất là gặp dòng nước đỏ ngầu mùi phèn. Hơn nửa triệu hecta đất bị bỏ hoang, sinh kế người dân gắn với mùa nước nổi và những chuyến đi xa làm thuê. Nhưng với những người làm thủy lợi, đó lại là bài toán phải giải. Năm 1978, Chính phủ quyết định khởi động Chương trình khai hoang Đồng Tháp Mười - dự án quy mô lớn đầu tiên về cải tạo vùng đất phèn mặn bằng biện pháp công trình. Hàng vạn cán bộ, kỹ sư, thanh niên xung phong, bộ đội được huy động. Từng con kênh được mở, từng cống ngăn mặn được dựng lên giữa bạt ngàn lau sậy. Những cái tên như kênh Hồng Ngự - Long An, kênh Nguyễn Văn Tiếp, kênh Bắc Đông - Bắc Nam trở thành biểu tượng của sức người và trí tuệ Việt Nam thời đó. Nhớ lại những tháng ngày đó, GS.TS Đào Xuân Học, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT vẫn tâm đắc với việc Việt Nam đã biến vùng Đồng Tháp Mười thành vựa lúa quốc gia bằng những giải pháp đơn giản mà khoa học, do chính các kỹ sư trong nước phát triển. Thay vì ngăn lũ như nhiều quốc gia từng thử, Việt Nam chọn cách “mời lũ vào đồng” có kiểm soát. Mạng lưới kênh trục, kênh nhánh được mở dày đặc, cho phép nước lũ ngọt tràn vào vùng đất phèn vào mùa mưa, rồi nhanh chóng rút đi khi nước trong. Quá trình đó giúp rửa sạch lớp phèn mặt, trung hòa đất và đưa phù sa vào đồng ruộng. Đến mùa khô, hệ thống cống ngăn mặn đóng lại, giữ nước ngọt và chặn dòng mặn từ sông Vàm Cỏ và sông Tiền. Cơ chế hai mùa - “mở lũ, giữ ngọt” - đã giúp giảm nhanh độ axit, phục hồi độ phì và tạo nên chu trình sinh thái cân bằng. Giải pháp kỹ thuật quan trọng nhất là giữ mực nước phủ ruộng quanh năm, để tầng pyrit nằm sâu dưới đất không tiếp xúc với không khí và bị oxy hóa. Cách “ém phèn tầng sâu” này kết hợp với việc “rửa phèn tầng mặt”, thay nước liên tục qua hệ thống kênh rạch, đã giúp đất ngọt hóa nhanh mà không cần hóa chất. Cách làm mang đậm chất "thủy lợi Việt Nam" này thường được gọi là “kỹ thuật hai tầng nước”. Lớp nước mặt di chuyển để rửa phèn, lớp nước ngầm được giữ yên để cô lập nguồn phèn tiềm tàng. Nhờ nguyên lý ấy, hàng trăm nghìn hecta đất từng bị bỏ hoang nay trở thành ruộng lúa năng suất cao. Bên cạnh đó, một đặc điểm ít nơi có là tổ chức không gian thủy lợi theo “ô thửa điều tiết độc lập” tại Đồng Tháp Mười. Các tuyến kênh trục Bắc - Nam, Đông - Tây chia khu vực thành nhiều ô nhỏ, mỗi ô có cống, trạm bơm, hệ thống thoát nước riêng. Khi mặn lên, chỉ cần đóng cống ở khu vực bị ảnh hưởng, không phải ngăn toàn vùng. Khi lũ đến, có thể đón nước vào vùng cao và xả ra vùng thấp theo kế hoạch. Công trình góp phần mở ra những điều kiện, còn bí quyết thật sự để khai phá vùng "đất chết" nằm ở cách người nông dân canh tác. Trên nền đất phèn, kỹ thuật “sạ ngầm” - gieo lúa dưới màng nước - giúp hạn chế phèn bốc lên, bảo vệ mầm non. Các giống lúa ngắn ngày, kháng phèn mặn như OM 1490, IR50404 được Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu phù hợp từng ô vùng. Mô hình này tạo nên chuỗi “cộng sinh kỹ thuật”. Thủy lợi giúp đất khỏe, giống mới giúp cây khỏe, còn cách canh tác giữ nước giúp duy trì độ phì. Năng suất lúa từ 2-3 tấn/ha những năm 1980 đã tăng gấp đôi, gấp ba chỉ sau 1 thập kỷ. Cũng trong thời gian ấy, diện tích đất phèn của Đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 1,8 triệu ha xuống còn khoảng 150.000 ha - một con số mà chính GS Học gọi là “phép màu". … đến vùng lúa vàng no ấm Nhờ bản lĩnh của thủy lợi Việt Nam, đến cuối thập niên 1980, hơn 400.000 ha đất hoang đã được hồi sinh, biến khu vực từng chỉ có sen và lau sậy thành vùng chuyên canh lúa năng suất cao. Từ một vùng “đất phèn, nước mặn”, Đồng Tháp Mười trở thành vựa lúa thứ hai của Việt Nam, cùng với An Giang, tạo vùng sản xuất lúa chủ lực của cả nước. Không chỉ thau chua, rửa mặn, công tác thủy lợi còn giúp kiểm soát lũ, bảo vệ mùa màng. Khi hệ thống kênh trục Hồng Ngự - Long An và Tây Ninh - Long An hoàn thành, dòng chảy lũ từ Campuchia được điều tiết hợp lý, giảm ngập úng cho vùng hạ lưu, đồng thời giữ lại nguồn phù sa quý giá. Nước được xem như tài nguyên sống, được “nuôi” chứ không còn bị “đuổi”. Nhờ kiểm soát nước, nông dân nơi đây có thể làm 3 vụ thay vì một vụ như trước. Giống lúa ngắn ngày, chống chịu phèn mặn tốt được tuyển chọn. Đến giữa những năm 1990, sản lượng lúa của vùng đạt hơn 4 triệu tấn/năm, đóng góp quan trọng giúp Việt Nam từ nước thiếu ăn trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Từ thành công "thau chua, rửa mặn" Đồng Tháp Mười, kỹ thuật xử lý phèn bằng rửa trôi tầng mặt, trồng cây che phủ tạm thời và bón vôi kết hợp phân hữu cơ cứ lan rộng mãi ra, gắn liền với các chương trình tập huấn cho nông dân. Hàng trăm lớp khuyến nông, hàng nghìn cán bộ kỹ thuật cơ sở ra đời từ chính yêu cầu cải tạo đất. Từ “thau chua, rửa mặn” đơn thuần, ngành thủy lợi đã mở ra hướng canh tác bền vững trên nền đất yếu, trở thành bài học cho nhiều quốc gia vùng nhiệt đới. Đặc biệt, từ năm 2000 trở lại đây, khi biến đổi khí hậu khiến mặn xâm nhập ngày càng sâu, những kinh nghiệm và hệ thống công trình của thời kỳ ấy tiếp tục phát huy hiệu quả. Các cửa cống, trạm bơm được nâng cấp, tự động hóa, dữ liệu quan trắc mặn được truyền về trung tâm điều hành ở Cần Thơ và Tây Ninh, giúp chính quyền chủ động điều tiết, bảo vệ hàng triệu hecta lúa và cây ăn trái. Hành trình hồi sinh Đồng Tháp Mười còn là câu chuyện của con người. Những dòng kênh mở ra cũng mở đường cho dân cư, cho trường học, bệnh viện, chợ và nhà máy mọc lên. Vùng đất từng được ví như “vùng trắng trên bản đồ dân cư” nay trở thành nơi sinh sống của hàng triệu người, với những khu vực sầm uất như Mộc Hóa, Tân Hưng, Tân Thạnh. Nước ngọt đã thay đổi cả lối sống. Trên những vùng đất từng chỉ mọc cỏ năng, người dân trồng được lúa, nuôi cá, trồng sen, làm du lịch sinh thái. Những tên gọi từng gắn liền với hoang vu như Đồng Sen, Tràm Chim, Vàm Cỏ... nay trở thành thương hiệu của sinh thái và nông sản sạch. Nếu Bắc Hưng Hải là biểu tượng của phong trào “đại thủy nông” miền Bắc, thì Đồng Tháp Mười là minh chứng cho tinh thần khai phá phương Nam, dám chinh phục những giới hạn khắc nghiệt nhất của thiên nhiên. Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức chuỗi sự kiện kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12/2025. Trong đó, trọng tâm là lễ Kỷ niệm 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường và Đại hội Thi đua yêu nước lần thứ I, tổ chức sáng 12/11/2025 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội) với hơn 1.200 đại biểu tham dự. Báo Nông nghiệp và Môi trường sẽ truyền hình trực tiếp sự kiện này. Theo Bảo Thắng/ NNVN |
Kỳ tích tái cơ cấu cây trồng trong 'thập kỷ vàng'
Loại chim bé tí ngang nắm tay chả khác nuôi gà ta, đẻ vô tội vạ, ông chủ trại nuôi ở Bình Phước hễ bán là hết cả chuồng
Loài cá tưởng bình dân mà bổ dưỡng nuôi khắp Việt Nam lần đầu "bơi" sang một quốc gia Nam Mỹ, nơi cũng nuôi rất nhiều
Vịt siêu trứng VST: Lựa chọn mới cho chăn nuôi ĐBSCL
Thoát nghèo từ mô hình nuôi dê quảng canh
Thúc đẩy nuôi rô phi nước lợ, mặn
Nông dân miền Tây trồng giống dừa lùn ra trái chi chít
Con vật đặc sản này bắt từ dưới nước lên kêu eng éc lạ tai, ai ngờ ở An Giang nuôi thành công, 500.000 đồng/kg
Chăn nuôi thỏ khép kín ở An Nhơn Tây
Nuôi cá chép ngon trên ruộng bậc thang ở Tuyên Quang, lúa tốt, cá tươi, kẹp nướng than, cả làng thơm





