Nuôi lươn đồng kiểu tự nhiên hiếm thấy, ông nông dân Thái Nguyên gọi bán là hết sạch

“Vừa học, vừa làm” với mô hình nuôi lươn đồng

Chia sẻ về cơ duyên đến với nghề nuôi lươn, ông Nguyễn Văn Tuyên cho biết, trước khi bén duyên với con lươn đồng, gia đình ông đã có kinh nghiệm chăn nuôi gà đồi nhiều năm và đạt hiệu quả kinh tế nhất định.

Tuy nhiên, mong muốn tìm kiếm mô hình mới, có giá trị kinh tế cao hơn và phù hợp với điều kiện địa phương, ông bắt đầu tìm hiểu và thử nghiệm mô hình nuôi lươn đồng, một con vật nuôi khó, hiếm tại Thái Nguyên.

Ông Tuyên bắt đầu nuôi lươn thử nghiệm từ những năm 2018, 2019 với quy mô nhỏ lẻ. Do chưa nắm chắc kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm thực tế nên mô hình chưa mang lại kết quả như mong muốn.

Không nản chí, ông tiếp tục “vừa đi học, vừa nghiên cứu”, học hỏi từ thực tế, từ những mô hình thành công ở các địa phương khác, kết hợp tự đúc rút kinh nghiệm trong quá trình nuôi.

“Không có thầy dạy bài bản, chủ yếu là học mót, học qua thực tế, phải mất 3–4 năm thử nghiệm, rút kinh nghiệm từ thất bại, tôi mới dần làm chủ được kỹ thuật”, ông Tuyên chia sẻ.

Đến cuối năm 2020, ông mạnh dạn đầu tư nuôi lươn với quy mô lớn. Tuy nhiên, theo ông Tuyên, phải khoảng 3 năm trở lại đây, khi đã kiểm soát tốt từ khâu nước, thức ăn, chăm sóc đến sinh sản, ông mới thực sự làm chủ được công nghệ nuôi lươn đồng.

Làm chủ kỹ thuật nuôi lươn đồng, yếu tố quyết định thành công

Theo ông Tuyên, nuôi lươn không quá khó nếu nắm chắc kỹ thuật và tuân thủ nghiêm ngặt các điều kiện môi trường. Thách thức lớn nhất trong chăn nuôi lươn là nguồn nước, thức ăn và chế độ chăm sóc.

Hiện nay, trại nuôi lươn bố mẹ của gia đình ông Tuyên có diện tích khoảng 700m², gồm 30 bể nuôi, với tổng chi phí đầu tư ban đầu gần 1 tỷ đồng. Từ trại lươn bố mẹ, ông chủ động gây giống, ấp nở và dự trữ lươn giống bột để cung cấp cho thị trường.

Một điểm khác biệt trong mô hình của ông Tuyên là không sử dụng kháng sinh trong suốt quá trình chăn nuôi. Khi lươn bị bệnh, ông chỉ sử dụng các loại thuốc nam và thảo dược tự nhiên.

Theo ông, con lươn có sức đề kháng tốt, ít mắc bệnh, chủ yếu chỉ bị nhiễm khuẩn khi môi trường nước không đảm bảo hoặc vệ sinh kém.

“Phòng bệnh là chính. Trong quá trình nuôi, tôi thường dùng lá ổi, cây nhọ nồi kết hợp với muối để tắm cho lươn, giúp xử lý ký sinh trùng trên da, phòng bệnh rất hiệu quả”, ông Tuyên cho biết.

Với các hộ mua lươn giống, trước khi thả giống, ông trực tiếp đến kiểm tra bể nuôi của các hộ, từ cách xây bể đến nguồn nước. Độ pH phù hợp để lươn sinh trưởng là từ 7 – 8,5, nước phải được lọc, giảm độ kiềm. Mật độ nuôi thích hợp khoảng 300 con/m² để lươn phát triển tốt, hạn chế dịch bệnh.

Việc thay nước phụ thuộc vào mật độ và kích cỡ lươn. Khi lươn còn nhỏ, ăn ít, có thể thay nước 1 lần/ngày; khi lươn lớn, mật độ dày thì phải thay nước từ 2 – 3 lần/ngày để đảm bảo môi trường sạch.

Chủ động con lươn giống, thị trường cung chưa đủ cầu

Lươn sinh sản từ khoảng tháng 2 đến tháng 9 âm lịch. Lươn đẻ trứng từ tháng 2 âm lịch, sau khoảng tháng 4 trứng ấp nở thành con giống. Khi lươn đạt kích cỡ khoảng 500 con/kg, có sức đề kháng tốt và bắt đầu ăn được thì mới xuất bán con giống.

Hiện trung bình mỗi năm, gia đình ông Tuyên sản xuất khoảng 20 – 25 vạn con giống, song vẫn chưa đủ cung cấp cho thị trường. Ước tính, từ nguồn giống của gia đình ông, các hộ chăn nuôi trong và ngoài địa phương mỗi năm cung cấp ra thị trường khoảng 20 – 30 tấn lươn thương phẩm.

Năm 2025, để tạo điều kiện cho bà con mở rộng chăn nuôi, ông Tuyên bán lươn giống với giá 3.500 đồng/con. Lươn thương phẩm được bán sỉ với giá từ 105.000 – 135.000 đồng/kg tùy số lượng; giá bán lẻ dao động 150.000 – 180.000 đồng/kg. Riêng sản phẩm lươn tươi hút chân không có giá từ 200.000 – 220.000 đồng/kg.

Theo ông Tuyên, hiện nay số lượng lươn thương phẩm vẫn còn ít nên tiêu thụ khá thuận lợi, có đến đâu bán hết đến đó.

Hướng tới chế biến sâu con lươn, xây dựng thương hiệu lươn đồng địa phương

Không dừng lại ở bán lươn giống và lươn thương phẩm, gia đình ông Tuyên đang từng bước đầu tư vào chế biến sâu nhằm nâng cao giá trị sản phẩm.

Hiện nay, các sản phẩm như lươn tươi hút chân không, lươn một nắng đã được đưa ra thị trường. Gần đây nhất, gia đình ông tiếp tục thử nghiệm sản phẩm lươn đồng sấy khô tẩm ướp gia vị, bước đầu lấy ý kiến đánh giá của người tiêu dùng.

Theo ông Tuyên, con lươn có giá trị dinh dưỡng cao, phù hợp với nhiều lứa tuổi. Khi người tiêu dùng quen dần, lươn hoàn toàn có thể trở thành sản phẩm hàng hóa chủ lực của địa phương, giá cả ổn định, ít rủi ro.

Tuy nhiên, thời gian nuôi lươn tương đối dài, từ 8 – 12 tháng, đòi hỏi người nuôi phải có vốn và sự kiên trì.

Để giúp bà con “lấy ngắn nuôi dài”, hiện ông Tuyên đang nghiên cứu và nuôi thêm cá rô đồng và cá trê, những loài vật nuôi có thời gian thu hoạch ngắn, chỉ khoảng 4 tháng. Hướng đi này được kỳ vọng sẽ giúp các hộ chăn nuôi ổn định dòng tiền, từng bước mở rộng quy mô nuôi lươn.

Đánh giá về mô hình nuôi lươn của gia đình ông Tuyên, ông Nguyễn Văn Cúc – Trưởng xóm Cà cho biết: Đây là mô hình chăn nuôi rất mới mẻ trên địa bàn. Ông Tuyên đã mạnh dạn học hỏi, đầu tư bài bản và kiên trì theo đuổi con lươn từ năm 2019 đến nay.

“Bước đầu, mô hình nuôi lươn của gia đình ông Tuyên đã thành công, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần tăng thu nhập cho HTX Tân Phú và gia đình. Hiện nay, trong xóm đã có một số hộ học tập, làm theo mô hình này”, ông Cúc cho hay.

Từ một hướng đi đầy thách thức, mô hình nuôi lươn đồng không kháng sinh của gia đình ông Nguyễn Văn Tuyên đang mở ra triển vọng phát triển kinh tế bền vững cho người dân xã Tân Khánh và các địa phương khác.

Với nền tảng kỹ thuật vững chắc, thị trường rộng mở và định hướng xây dựng thương hiệu địa phương, con lươn đang dần khẳng định vị thế là loài vật nuôi giàu tiềm năng ở vùng quê Thái Nguyên.

Theo HÀ THANH - KIỀU HẢI - NGÔ HUY/ DÂN VIỆT 

Các tin khác